Nguyễn Trung (sinh 1940, Sóc Trăng) là một tên tuổi lớn của hội họa miền Nam và của thị trường mỹ thuật. Kể từ bức tranh đầu tiên bán đầu thập niên 1960 với giá 300 USD - rất lớn thời bấy giờ - hơn nửa thế kỷ qua, Nguyễn Trung luôn là tên tuổi được tìm kiếm trên thị trường. Hiện nay, vài bức tranh của ông đã vượt ngưỡng 100.000 USD.
Khai mạc lúc 18h ngày 9/12 tại phòng tranh Quỳnh (65 Đề Thám, Q.1, TP.HCM) với 19 tranh trừu tượng khổ lớn, Xám trắng đen là cuộc tái xuất của Nguyễn Trung kể từ triển lãm cá nhân Bảng đen của anh vào năm 2004.
Nhìn theo lịch đại, có thể tạm chia Nguyễn Trung thành hai giai đoạn sáng tác: thời kỳ hiện thực/biểu hình (1961-1975) và thời kỳ trừu tượng (từ 1990 đến nay). Tuy nhiên, thực tế thì sau này Nguyễn Trung vẫn phải vẽ đan xen giữa biểu hình và trừu tượng. Như năm 2006 tại triển lãm chung ở California, Mỹ, Nguyễn Trung chia sẻ: “Đối với người Việt, dù là ở trong nước hoặc hải ngoại, những người từng yêu tranh figurative (biểu hình - PV) của tôi đều vẫn còn giữ tình cảm với loại tranh này. Chính vì cái ơn tri ngộ này mà tôi chưa thể dứt khoát với figurative”.
Tranh biểu hình của Nguyễn Trung thường vẽ phái nữ (mà thiếu nữ, phụ nữ là chủ yếu), đến nay vẫn rất được giới sưu tập lùng kiếm. Ngay từ năm 21 tuổi, ông đã đoạt Huy chương Bạc tại Triển lãm Hội họa mùa Xuân (năm 1961, Sài Gòn) với tác phẩm vẽ thiếu nữ.
Tìm một con đường mới cho nghệ thuật
Còn nhớ, trước năm 1975 tại Sài Gòn có Hội Họa sĩ trẻ Việt Nam - được thành lập vào tháng 11/1966, Nguyễn Trung làm phó chủ tịch. Tuyên ngôn nghệ thuật của hội này do Nguyễn Trung chắp bút.
Nguyễn Trung nhớ lại: “Không có tham vọng hoặc ý thức gì lớn lao khi tạo dựng cái này, cái kia, mà là những nỗ lực tự thân của từng cá nhân tìm một con đường mới cho nghệ thuật của riêng mình. Vô hình trung, ý thức vươn tới đổi mới đó đã kéo mọi người lại gần với nhau. Đó cũng là tiêu chí đầu tiên để chọn hội viên”.
Họa sĩ Nguyễn Trung, chụp năm 2017.
“Tại sao tôi được bầu vào nhóm lãnh đạo hội này?” - Nguyễn Trung tự thán. Và ông trả lời: “Có lẽ anh em phục tài mà bầu thôi, chứ tôi đâu biết làm gì? Một điều lạ là dù còn rất trẻ, đều ở tuổi ngoài hai mươi, tri thức chưa đạt đến độ chín, sách báo về hội họa phương Tây thì thiếu thốn, nhưng mỗi người trong hội đều có một lập ngôn riêng về nghệ thuật, như một sự chọn lựa vô thức. Sự năng động và khát khao tìm tòi trên cái nền của văn nghệ tự do đã sớm mang lại cho mỗi người những giải thưởng hội họa lớn trong nước lúc đó. Bằng những triển lãm thường niên trong và ngoài nước, nhóm đã bày tỏ quan điểm của mình, đó là hài hòa giữa kỹ thuật phương Tây hiện đại và tinh thần phương Đông đậm đặc bản sắc”.
Trong tuyên ngôn lần thứ hai, họ đã kêu gọi sự tỉnh thức, sự quay về, để có một tiếng nói riêng. Nào là: “Từ bỏ chủ nghĩa buông thả, chủ nghĩa cá nhân chật hẹp, giải thoát tư tưởng khỏi phòng vẽ tù túng để cùng sống sức sống Việt Nam”; nào là: “… theo đuổi khuynh hướng nghệ thuật tân kỳ nhất, ở gần chúng ta nhất: khuynh hướng đã có sẵn ngay trong lòng chúng ta, ngay trong lòng quần chúng Việt Nam”.
Nguyễn Trung nhớ lại: “Lúc ấy, Nguyễn Phước là người làm tranh trừu tượng sớm nhất, tôi cũng thử nghiệm làm tranh trừu tượng nhưng thấy chưa được. Làm tranh trừu tượng là một sự hy sinh lớn, vì khó có ai dám bỏ nhiều tiền mua loại tranh này. Cũng có người nói tôi sao không vẽ bình thường dễ bán hơn, tìm tòi cái này cái khác làm chi. Xã hội luôn đè bẹp người ta bằng những thành kiến, không muốn có gì đổi mới”.