Chân dung họa sĩ Lê Quốc Lộc
Họa sĩ Lê Quốc Lộc sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918, mất ngày 8 tháng 5 năm 1987 quê ở Phùng Hưng, Khoái Châu, Hưng Yên. Ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương khóa 1937 – 1942. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Lê Quốc Lộc bắt đầu hoạt động cách mạng và gia nhập Việt Minh. Sau cách mạng, từ năm 1945 đến năm 1946 ông công tác tại Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Từ năm 1947 đến năm 1954, ông được giao phụ trách ngành Họa ở Sở Tuyên truyền Liên khu III . Vào năm 1959, ông được giao chức vụ Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội . Ngoài ra, từ năm 1966, ông còn là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam nhiệm kỳ I.
Chủ đề trong các tác phẩm của Lê Quốc Lộc chủ yếu là kháng chiến và cách mạng. Họa sĩ Lê Quốc Lộc đặc biệt có hứng thú với chất liệu sơn mài. Ông đặc biệt coi trọng nội dung trong từng tác phẩm và hướng đến tính thẩm mỹ cao. Do đó, các tác phẩm của ông luôn có một góc nhìn mới mẻ, ghi dấu ấn về sáng tạo cả nội dung và hình thức thể hiện. Rất nhiều những giải thưởng, huân chương được trao tặng trong cuộc đời sáng tác nghệ thuật của ông đã chứng minh phần nào tài năng của ông.
Thành tựu đạt được trong cuộc đời sáng tác nghệ thuật của họa sĩ Lê Quốc Lộc
Trong suốt quá trình công tác, Lê Quốc Lộc đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhì và Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Ngoài ra còn có Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam và Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam.
Bên cạnh đó, các tác phẩm của ông luôn được đánh giá cao và giành được nhiều giải thưởng quan trọng trong nước lẫn quốc tế:
Triển lãm Hội họa: Giải nhất năm 1951
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc: Giải nhất năm 1960; Giải nhì năm 1955, 1958 và 1962
Triển lãm Mỹ thuật Thủ công Cộng hòa dân chủ Đức: Giải nhất 1978; Giải nhì năm 1974.Đặc biệt, sau khi qua đời, Lê Quốc Lộc đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật vào năm 2000 cho các tác phẩm: Qua bản cũ (sơn mài,1957), Ánh sáng đến (sơn mài, 1957), Tiêu thổ kháng chiến (sơn mài, 1958), Giữ lấy hòa bình (sơn mài, 1962) và Từ trong bóng tối (sơn mài, 1982).